Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (tiếng Anh: Corporate social responsibility, viết tắt: CSR) là một dạng hoạt động có quy tắc được các doanh nghiệp tự đưa ra [1] nhằm giúp doanh nghiệp đóng góp cho các mục tiêu xã hội dưới vai trò là một doanh nghiệp nhân đạo, hoạt động vì cộng đồng bằng cách tham gia, hỗ trợ các hoạt động tình nguyện hoặc thực hiện những hoạt động mang tính đạo đức.[2] Trước đây, thuật ngữ này từng được hiểu như là một chính sách nội bộ riêng của một tổ chức hay một chiến lược đạo đức kinh doanh[3], nhưng điều này không còn chính xác bởi sự phát triển của rất nhiều những bộ luật quốc tế và cả việc hàng loạt các tổ chức đã sử dụng khả năng của mình để đưa thuật ngữ này vươn ra khỏi việc chỉ là một sáng kiến hay lý tưởng của vài cá nhân hay thậm chí là của một ngành nghề kinh doanh nhất định. Sau đó, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) được coi như là một cách tự điều chỉnh của doanh nghiệp[4], tuy nhiên, trong khoảng một thập kỷ trở lại đây, ý nghĩa của thuật ngữ này đã dần thay đổi, không còn chỉ là những quyết định mang tính tự nguyện dưới cấp độ của một cá thể tổ chức nào đó, mà đã trở thành một chính sách bắt buộc phải có của bất cứ tổ chức nào dù ở tầm cỡ khu vực, quốc gia hay quốc tế. Xét trên mức độ của tổ chức, CSR thường được hiểu là một sáng kiến chiến lược giúp góp phần nâng cao danh tiếng cho thuơng hiệu.[5] Theo đó, những sáng kiến trách nhiệm xã hội phải liên kết chặt chẽ với nhau và phải được tích hợp lại thành một mô hình kinh doanh thì mới thành công. Với một số mô hình, việc thực hiện CSR của công ty vượt ra khỏi sự tuân thủ các yêu cầu được quy định và đóng góp vào "các hành động có vẻ giúp tăng cường một số lợi ích xã hội, vượt ra khỏi lợi ích của công ty và những điều được pháp luật yêu cầu".[6]CSR được tin tưởng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện sứ mệnh của mình, cùng với đó đây cũng chính là kim chỉ nam để công ty thể hiện giá trị với người tiêu dùng. ISO 26000 là chuẩn mực quốc tế được công nhận dành cho CSR. Còn các tổ chức khu vực công (Liên hợp quốc là một ví dụ) sẽ tuân theo ba vấn đề căn bản (TBL). CSR được thừa nhận rằng tuân theo các nguyên tắc tương tự, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có hình thức pháp chế nào đưa ra những chuẩn mực về hành vi một cách chính thức dành cho CSR.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp http://www.theaustralian.news.com.au/story/0,25197... http://www.austlii.edu.au/au/journals/MonashULawRw... http://www.lexisnexis.ca/bookstore/bookinfo.php?pi... http://www.businessdictionary.com/definition/corpo... http://www.emeraldinsight.com/doi/abs/10.1108/IJCH... //books.google.com/books?id=QLYCAAAACAAJ //books.google.com/books?id=bMEgAAAACAAJ //books.google.com/books?id=jwQB_XWs0TkC //ssrn.com/abstract=731603 http://eu.wiley.com/WileyCDA/WileyTitle/productCd-...